Tương tự các lĩnh vực dân sự, hình sự, pháp luật hành chính cũngquy định rõ thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính của Tòa án. Mặc dùđã có nhiều kế thừa, phát triển, nhưng quy định của Luật Tố tụng hành chính(LTTHC) năm 2015 về vấn đề này vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án
Về thẩm quyền theo loại việc
Thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện giúp xác định vụ việcxảy ra có thuộc thẩm quyền giải quyền của Tòa án theo thủ tục tố tụng hànhchính hay không. Điều 30 LTTHC năm 2015 quy định về đối tượng xét xử vụ án hànhchính gồm khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyếtđịnh, hành vi sau đây:
– Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mậtnhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định củapháp luật;
– Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xửlý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng;
– Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ củacơ quan, tổ chức;
– Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữchức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống;
– Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại và quyết định xử lývụ việc cạnh tranh;
– Khiếu kiện danh sách cử tri.
Về thẩm quyền xét xử hành chính theo cấp và lãnh thổ
Tòa án hành chính ở nước ta được thành lập trong hệ thốngTAND cấp tỉnh và TAND Cấp cao, TAND cấp huyện không tổ chức Tòa án hànhchính mà có các thẩm phán chuyên trách thực hiện việc xét xử án hành chính. Tòaám hành chính ở nước ta tổ chức theo đơn vị hành chính – lãnh thổ và trùng vớicơ quan hành chính về lãnh thổ và về cấp.
Thẩm quyền này được quy định cụ thể tại Điều 31, 32 LTTHC 2015.Xét về nội dung của những quy định nêu trên thì thẩm quyền giải quyết của Tòaán cấp tỉnh kế thừa gần như toàn bộ so với LTTHC năm 2010. Theo đó TAND cấptỉnh có thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm đối với phần lớn các khiếu kiệnkhông thuộc thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của Tòa án cấp huyện; đối vớinhững khiếu kiện có người bị kiện ở Trung ương thì Tòa án có thẩm quyền là Tòaán có cùng phạm vi địa giới hành chính với người khởi kiện.
Ngoài ra, LTTHC không chỉ căn cứ vào dấu hiệu về địa giới hànhchính của người khởi kiện mà còn căn cứ vào dấu hiệu về nơi ban hành quyết địnhhay thực hiện hành vi bị khiếu kiện để xác định phạm vi các khiếu kiện thuộcthẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của mỗi Tòa án trong cùng một cấp.
Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
Tranh chấp giữa Tòa án với cơ quan khác (chủ thể có thẩm quyềngiải quyết khiếu nại): Một người vừa đi khiếu nại vừa đi khởi kiện thì tùy theosự lựa chọn của đương sự.
Tranh chấp giữa Tòa án với Tòa án: Một người nộp đơn kiện tại 2nơi. Nếu là 2 TAND cấp huyện trong cùng 1 tỉnh thì Chánh án TAND tỉnh tiến hànhgiải quyết. Nếu là 2 TAND cấp huyện khác tỉnh hoặc 2 TAND tỉnh trong phạm vilãnh thổ thì Chánh án TAND Cấp cao giải quyết. Nếu là 2 TAND cấp tỉnhkhông trong cùng phạm vi lãnh thổ của TAND Cấp cao thì Chánh án TAND Tốicao giải quyết.
Một số vấn đề bất cập, vướng mắc và kiến nghị
Thứ nhất, về thẩm quyền theo loại việc: LTTHC 2015 quy định theohướng liệt kê và loại trừ nhằm tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức trong việcxác định loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
So với LTTHC 2010, LTTHC 2015 có điểm mới tiến bộ là quy định rõràng hơn và bổ sung thêm trường hợp loại trừ về “áp dụng biện pháp xử lý hànhchính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng” là quy định phù hợp vớithực tiễn và đảm bảo tính khách quan.
Tuy nhiên, có thể thấy việc xác định “quyết định hành chính”,“hành vi hành chính” hay “quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tínhnội bộ” trên thực tiễn vẫn rất khó khăn mặc dù LTTHC 2015 đã có quy định giảithích. Ngoài ra, việc quy định “trong hoạt động quản lý hành chính” cũng chưarõ ràng, dẫn đến việc lúng túng và quyết định cách thức xử lý không chính xác.
Do đó, cần tiếp tục có giải thích, hướng dẫn cụ thể, rõ ràng vềnhững vấn đề này. Đồng thời, đối với hành vi không giải quyết khiếu nại. Đây làhành vi hành chính bị kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tuy nhiên, có trườnghợp người khởi kiện do đã nộp đơn khiếu nại sai thẩm quyền nên khiếu nại khôngđược giải quyết. Trường hợp này, để giảm thiểu công việc, thời gian, chi phí,cần bổ sung quy định cho phép Tòa án hướng dẫn, giải thích cho người khởi kiệnkhiếu nại đúng chủ thể.
Thứ hai, về thẩm quyền theo cấp, lãnh thổ: Trước tiên, việc quyđịnh thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vihành chính của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyệnthì không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện mà thuộc thẩm quyền giải quyếtcủa TAND cấp tỉnh có mặt ưu điểm trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, theo tiếntrình cải cách tư pháp với chủ trương xây dựng Tòa án khu vực và mở rộng thẩmquyền cho cơ quan tư pháp cấp huyện thì quy định này lại đang gây ra những cảntrở nhất định. Đó là việc tạo áp lực công việc cho Tòa án cấp tỉnh, gây khókhăn, tốn kém cho đương sự.
Do đó, cần nghiên cứu định hướng trao thẩm quyền này cho TANDcấp huyện.
Tiếp theo, LTTHC 2015 quy định quy định TAND cấp tỉnh có thể lấymột số khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của TAND cấp huyệnlên để giải quyết. Quy định này có thể làm tăng áp lực công việc cho Tòaán cấp tỉnh; làm giảm cơ hội xem xét lại vụ việc của Tòa án cấp trên theo thủtục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Do đó, để khắc phục hạn chế này cùng với việc thúc đẩy quá trìnhcải cách tư pháp, về lâu dài cần thay đổi theo hướng tăng cường năng lựccủa đội ngũ cán bộ TAND cấp huyện để có đủ khả năng giải quyết những vụ án đó màkhông cần lấy lên Tòa án cấp tỉnh. Trước mắt, cần quy định rõ một số tiêu chíđể xác định những vụ án nào thì Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết.
VĂN LINH